Phân loại Họ Ráng cánh bần

Lịch sử

Năm 1990, Karl U. Kramer và các đồng tác giả định nghĩa Dryopteridaceae gồm các họ của nó hiện tại, cũng như họ Woodiaceae Sensu lato, Onocleaceae và hầu hết Tectariaceae[6]. Các nghiên cứu phát sinh phân tử thấy rằng Dryopteridaceae theo Kramer là đa ngành và Smith cùng các đồng sự chia tách nó ra vào năm 2006[4]. Việc bao gồm Didymochlaena, Hypodematium và Leucostegia trong Dryopteridaceae là điều khá khả nghi. Nếu ba chi này bị loại đi thì họ này được xem là đơn ngành trong các phân tích mô tả theo nhánh[7]. Một số tác giả đã coi những chi này không thuộc họ Dryopteridaceae.[8]

Vào năm 2007, một nghiên cứu phát sinh gen về trình tự DNA cho thấy là Pleocnemia đáng lí là ở họ Dryopteridaceae chứ không phải họ Tectariaceae[9]. Trong một bài báo về dương xỉ bolbitidoid vào năm 2010, các nhà nghiên cứu chuyển chi Arthrobotrya về từ họ Teratophyllum. Cũng cuối năm đó, người ta biết rằng chi Mickelia là chi mới trong họ này.[10]

Một số loài đã bị loại khỏi chi Oenotrichia vì chúng không thuộc về chi này hoặc thậm chí là cả họ Dennstaedtiaceae. Những loài này có thể thuộc họ Dryopteridaceae, nhưng người ta chưa đặt tên chung cho chúng[7]. Vào năm 2012, một nghiên cứu phát sinh gen về Dryopteris' và họ hàng của nó bao gồm Acrophorus, Acrorumohra, Diacalpe, Dryopsis, Nothoperanema và Peranema là nằm trong chi Oenotrichia[11]. Flora of China xuất bản năm 2013 cho ta biết có các kết quả phát sinh gen Litostostia và Phanerophlebiopsis là thuộc chi Arachniodes.[12]

Các phân họ

Họ này có các phân họ và các chi dưới đây:[1]